logo-tapnews
tiếng nói người Việt toàn cầu

Hò Huế - Tấm gương phản chiếu một nền văn hóa lâu đời

Ngày đăng: 25/7/2025

(TAP) - Nghệ thuật cổ truyền Việt Nam bao gồm nhiều loại hình với vô vàn sắc thái và cung bậc cảm xúc khác nhau, trong đó có hò Huế. Ca từ của hò Huế là tấm gương phản chiếu sinh động bức tranh văn hóa Huế, lột tả vẻ đẹp thiên nhiên, đưa ta đến gần hơn với đời sống tinh thần, tình cảm, quan niệm con người nơi Cố đô. Từ câu hò lao động giản dị đến những làn điệu trữ tình sâu lắng, tất cả đều mang dấu ấn của một nền văn hóa lâu đời, đậm đà bản sắc.

Tìm về nguồn gốc hò Huế

Theo thông tin từ tiểu luận cao học văn chương “Hò Huế” (năm 1971) của giáo sư Thanh Lãng, thuộc Trường Đại học Văn Khoa, có thể thấy hò Huế không xuất hiện vào thời đại Thượng cổ vì lãnh thổ Việt Nam chỉ ở vùng châu - thổ sông Nhị; hò Huế cũng không xuất hiện vào thời kỳ Bắc thuộc, tức trước năm 1305 vì ở giai đoạn đó chưa có xứ Huế. Đến năm 1306, vua của vương quốc Chămpa - Chế Mân dâng Châu Ô, Châu Lý (phía Bắc Quảng Trị và Thừa Thiên, bao gồm đèo Hải Vân) làm sính lễ cho nhà Trần trong lễ cưới công chúa Huyền Trân. Từ lúc này cho đến năm 1802, vùng đất nói trên được đổi tên là Thuận Hóa bao gồm một phần phía nam tỉnh Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên - Huế ngày nay. 

Hò Huế - Tấm gương phản chiếu một nền văn hóa lâu đời

 Dòng sông Hương luôn là nguồn cảm hứng bất tượng cho lời hò Huế. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam

Trong khoảng thời gian từ năm 1305 - 1802, nơi đây vẫn có các loại dân ca gồm hát, ca dao, hò,... bởi người dân di cư từ miền đồng bằng Bắc Bộ vào mang theo văn hóa, mang theo cả thành tố không thể thiếu trong cuộc sống lao động là dân ca. Khi đến vùng đất Thuận Hóa, dân ca miền Bắc như một lẽ thường tình chịu ảnh hưởng của văn hóa và phong thổ nơi đây nên dần cựa mình thoát xác. Nói cách khác, tiền thân của hò Huế đã ra đời, xuất phát từ người lao động trong quá trình làm việc cất lên câu hò xua tan sự mệt mỏi, tạo thêm sức bật cho lao động, đem lại niềm vui, sự lạc quan trong đời sống. 

Sau khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua vào năm 1802, đóng đô ở Phú Xuân và thống nhất từ Nam chí Bắc cho đến năm 1945 thì hò Huế chính thức bước vào con đường phát triển mạnh mẽ. Thừa Thiên - Huế ở thời điểm đó là thủ đô với trình độ phát triển cao về chính trị, thương mại, văn hóa, xã hội,... Hò Huế từ chỗ xuất hiện mờ nhạt dần tiến vào giai đoạn phát triển đều đặn; từ chỗ chịu ảnh hưởng đậm nét văn hóa vùng đồng bằng Bắc Bộ đến lúc trưởng thành dưới phong cách sinh hoạt và phong thổ Thừa - Thiên, tạo nên một điệu hò độc đáo về âm điệu lẫn nội dung tại miền sông Hương núi Ngự. 

Những điệu hò thân thương vùng đất Kinh kỳ 

Một bài hò tối thiểu gồm 2 câu đến 5 - 6 câu, 2 câu cuối xuống bằng 2 câu thơ lục bát. Về hình thức ca từ, thể thơ lục bát vẫn được dùng nhưng phổ biến hơn là thể thơ lục bát biến thể và song thất lục bát biến thể. 

Theo tài liệu từ sách “Đặc khảo Hò Huế” (năm 1999) của tác giả Lê Văn Chưởng, ông phân chia hò thành 3 nhóm theo chức năng: Hò nghi lễ, hò sinh hoạt vui chơi, hò lao động sản xuất và nghề nghiệp. Về hò nghi lễ, gồm có đưa linh - chèo cạn. Về hò sinh hoạt vui chơi, có hò ru con, hò bài thai, hò bài chòi, hò bài tiệm và hò nàng vung. Về hò lao động sản xuất có hò ô, hò lơ, hò xay lúa, hò nện, hò quết vôi, hò kéo thác, hò đẩy noốc, hò gọi nghé, hò Mái Nhì (Mái Đẩy), hò giã gạo.

Trải qua nhiều thế kỷ, những câu hò Huế phần lớn được sáng tạo để phản ánh chân thực các công việc của con người, biến cuộc sống đơn điệu thường ngày trở nên vui tươi, sinh động. Ca từ của hò trải dài từ hoạt động chèo thuyền, đánh cá trên sông nước hay biển khơi, đến công việc cấy lúa, gặt hái, trồng trọt trên cánh đồng mênh mông. Có thể nói, hò giã gạo và hò Mái Nhì là hai loại hò phổ biến nhất trong đời sống lao động của người dân nơi đây. 

Trong đó, câu hò giã gạo nói lên sự nhọc nhằn, đồng thời bộc lộ sự tự hào về thành quả của cả quá trình làm ra những hạt gạo trắng ngần nuôi sống bao gia đình. Hò giã gạo có thể gồm 2, 4 hay 6 người, một cối hò thường có 4 nghệ nhân (2 nam và 2 nữ), hình thành 2 đôi hò khác giới. Loại hò này trình diễn theo hình thức đồng diễn đa xướng gồm 2 vế xướng và xô. Vế xướng do 1 người phụ trách nhưng không cố định mà các thành viên trong cối hò luân phiên tham gia. Vế xô cho tập thể đáp ứng bằng những tiếng đệm “hồ hô hô hồ”. Mỗi đôi hò đối đáp sẽ luân phiên xen kẽ nhau theo công thức: Ân tình - Đâm bắt - Ân tình - Đâm bắt. 

Còn điệu hò Mái Nhì thường xuất hiện trong những hoạt động chèo thuyền, đánh bắt trên sông. Cố đô vốn là nơi có nhiều đầm, phá, sông nên phương tiện giao thông chủ yếu là tàu, thuyền, đò. Câu hò lúc này như tiếng nói nhỏ nhoi của con người khi đứng trước thiên nhiên rộng lớn. Hò Mái Nhì ra đời như tiếp thêm sức mạnh tinh thần, ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên, để những nhịp điệu của mái chèo cuốn đi những cô độc của cuộc sống người dân chài. Thông thường, lời hò chia làm 2 phần. Phần đầu là một cặp thơ 7 - 8 chữ, mang nội dung giới thiệu cảnh sắc xứ Huế. Phần sau mang ý nghĩa tả tình bằng một cặp câu lục bát hoặc lục bát biến thể. Tương tự hò giã gạo, hò Mái Nhì cũng có người xướng và người xô. 

Với những giá trị văn hóa sâu sắc, hò Huế chính thức được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 1877/QĐ-BVHTTDL do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam ban hành ngày 08/6/2015. Đây là một cột mốc quan trọng, khẳng định giá trị văn hóa đặc biệt của hò Huế và những nỗ lực bảo tồn, phát huy nghệ thuật truyền thống này. Hò Huế cũng có đóng góp to lớn về mặt kinh tế, chủ yếu thông qua các hoạt động du lịch và dịch vụ liên quan. Theo Báo cáo kết quả phát triển du lịch tại Thừa - Thiên Huế năm 2023 của Tổng Cục du lịch Việt Nam, tỉnh đã đón khoảng 3,2 đến 3,5 triệu lượt du khách​ với tổng doanh thu đạt khoảng 7.000 - 8.000 tỷ đồng, với các sự kiện và chương trình liên quan đến hò Huế là điểm nhấn thu hút du khách, đặc biệt trong các kỳ lễ hội lớn như Festival Huế. Theo đó, hò cùng các yếu tố văn hóa khác như nhã nhạc cung đình, các hoạt động biểu diễn nghệ thuật truyền thống thường được biểu diễn rộng rãi trong các lễ hội lớn của tỉnh chính là sản phẩm du lịch độc đáo giúp giữ chân du khách.

Hò Huế - Tấm gương phản chiếu một nền văn hóa lâu đời

Chuyến tàu “Kết nối di sản miền Trung” là một trong những hoạt động du lịch đặc sắc được nhiều du khách tìm đến. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam

Hò Huế như đúng cái tên, khi mang dáng dấp những nhân vật lịch sử ở mảnh đất Thừa Thiên có công dựng xây đất nước, khi chan chứa nỗi lòng của con người xứ Huế, khi lại gợi nhớ về cảnh vật, thiên nhiên nơi kinh đô một thời. Hò Huế vươn mình trở thành một phần văn hóa dân gian trên những dặm đường phát triển của dân tộc, nuôi dưỡng tâm hồn con người đất nước bốn ngàn năm văn hiến để xứng với danh hiệu Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. 

Phương Anh

Loading comments...

Bài viết liên quan