(TAP) - Gốm Chăm, một di sản văn hóa độc đáo, lưu giữ trọn vẹn tín ngưỡng, tâm hồn của dân tộc. Từng đường nét hoa văn phóng khoáng, ngẫu hứng kể câu chuyện về một nền văn minh rực rỡ. Qua nhiều thế hệ, nghề gốm không chỉ nuôi sống con người mà còn nâng cao vị thế, kết nối cộng đồng người phụ nữ Chăm.
Người Chăm - một trong những dân tộc thiểu số có lịch sử lâu đời tại Việt Nam cư trú chủ yếu ở các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ, với tỉnh Ninh Thuận (nay là Khánh Hòa) giữ vai trò trung tâm văn hóa lớn nhất - nơi hội tụ hơn 40% đồng bào Chăm cả nước Việt Nam. Trải qua chiều dài lịch sử, người Chăm đã kiến tạo nên một kho tàng di sản văn hóa phong phú, đặc sắc, để lại dấu ấn đậm nét. Những công trình đền tháp cổ kính, lễ hội dân gian truyền thống cùng hệ thống làng nghề thủ công minh chứng cho một nền văn minh rực rỡ, góp phần làm giàu thêm bản sắc văn hóa Việt Nam.
Phụ nữ Chăm tạo hình cho tác phẩm gốm của mình. Nguồn: Cổng thông tin Cục Di sản Văn hóa Việt Nam
Trong số những di sản quý giá ấy, nghề làm gốm Chăm tỏa sáng như một biểu tượng đặc sắc, phản ánh tinh thần sáng tạo không ngừng và đậm đà truyền thống cộng đồng này. Theo thông tin từ Cục Di sản Văn hóa Việt Nam, nghề làm gốm Chăm gắn liền tín ngưỡng tôn thờ thần Po Klong Can - vị Tổ nghề linh thiêng của người Chăm với các nghi lễ dân gian, điệu múa, lời ca mang đậm âm hưởng văn hóa truyền thống. Vì vậy, những sản phẩm gốm Chăm chủ yếu gồm đồ gia dụng, đồ dùng cúng lễ, đồ mỹ nghệ như chum (jek), nồi (gok), mâm (cambak), bình (bilaok),... Điểm làm nên giá trị đặc sắc cho nghề gốm Chăm chính là quy trình tạo hình sản phẩm không dùng bàn xoay, không khuôn đúc, không tráng men, không nung lò,... Người phụ nữ Chăm di chuyển giật lùi quanh khối đất sét, vừa nắn vừa nâng thân gốm dần dần bằng những dải đất gọi là “con trạch”. Những hoa văn khắc họa bằng que tre, răng lược, vỏ sò hay màu thực vật không theo khuôn mẫu cứng nhắc mà phóng khoáng, ngẫu hứng, phản ánh tinh thần tự do, bản sắc dân tộc Chăm rõ nét trên từng sản phẩm.
Nghề gốm của người Chăm gắn liền tín ngưỡng tôn thờ thần Po Klong Can. Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận
Tiếp đó, quá trình nung gốm diễn ra ngoài trời khoảng 7 - 8 giờ ở nhiệt độ gần 800°C. Người thợ chọn một khoảng sân trống, xếp một lớp củi đều tay để lửa cháy lan tỏa. Những sản phẩm gốm đặt lên trên, xếp theo thứ tự từ lớn đến nhỏ, xen kẽ các lớp củi để nhiệt phân bố đều. Cuối cùng, dùng một lớp rơm cùng trấu dày phủ kín toàn bộ, giữ nhiệt, bảo vệ gốm suốt quá trình nung. Khi lửa tắt, gốm gia dụng để nguội tự nhiên, trong khi gốm mỹ nghệ được lấy ra ngay phủ lên những lớp màu tự nhiên. Màu sắc chiết xuất từ vỏ cây, trái thị, hạt đào,… tạo nên sắc độ ấm áp, gần gũi. Với những sản phẩm cao cấp, sau khi phun màu, người nghệ nhân mang gốm đi nung lần thứ hai để cho ra những tông màu đặc trưng như nâu sẫm, xám đen hay đỏ đậm, tạo nên nét riêng biệt. Từng công đoạn thực hiện tỉ mỉ, kết hợp giữa kinh nghiệm lâu đời và sự cảm nhận tinh tế từ người thợ. Nhờ vậy, mỗi sản phẩm gốm không chỉ bền chắc mà còn mang vẻ đẹp mộc mạc, đậm chất truyền thống.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài, lao động sản xuất gốm trở thành môi trường giao lưu xã hội của người phụ nữ Chăm. Nguồn: Cổng thông tin Cục Di sản Văn hóa Việt Nam
Theo thông tin từ Cục du lịch Quốc gia Việt Nam, đến nay, gốm Chăm còn hiện diện chủ yếu ở làng Ligok (làng gốm Chăm Bình Đức, trước đây có tên gọi Trì Đức) thuộc xã Phan Hiệp, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận) và làng Hamu Crok (làng gốm Bàu Trúc thuộc thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận). Đặc biệt, tồn tại khoảng cuối thế kỷ 12 đến nay, Bàu Trúc thuộc số rất ít những làng gốm cổ ở Đông Nam Á còn giữ lại cách sản xuất thô sơ từ ngàn xưa. Dưới bàn tay tài hoa của người phụ nữ Chăm, những khối đất sét vô tri bỗng chốc hóa thành những tác phẩm gốm mộc mạc mà đầy tinh tế, mang hơi thở lịch sử, văn hóa dân tộc. Trải qua quá trình hình thành, phát triển lâu dài, nghề gốm không đơn thuần là một công việc mưu sinh mà đã trở thành biểu tượng sáng ngời cho sự sáng tạo cá nhân trên nền tảng tri thức cộng đồng được lưu truyền qua bao thế hệ. Đây chính là cầu nối văn hóa quan trọng, tạo điều kiện để phụ nữ Chăm giao lưu, kết nối lao động sản xuất, sinh hoạt xã hội, trao truyền nghề nghiệp. Qua đó, vai trò, vị thế người phụ nữ trong cộng đồng ngày càng được khẳng định.
Infographic Nghệ thuật làm gốm của người Chăm. Nguồn: Cổng thông tin Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam
Tuy nhiên, ngày nay, giữa bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị hóa lan rộng, nghề làm gốm Chăm đang đối mặt nhiều thách thức: thiếu đầu ra bền vững, nguy cơ mai một nghề nghiệp và đánh mất bản sắc. Trước thực trạng đó, ngày 29/11/2022, tại Kỳ họp thứ 17 ở Thủ đô Rabat, Vương quốc Maroc, Ủy ban liên Chính phủ Công ước 2003 thuộc UNESCO quyết định đưa “Nghệ thuật làm gốm của người Chăm” vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy giá trị nghề gốm Chăm không còn là trách nhiệm riêng cộng đồng người Chăm mà trở thành sứ mệnh chung, cần sự đồng hành, trân trọng, chung tay toàn xã hội. Có như vậy, những tác phẩm gốm mộc mạc mà tinh tế, bình dị sâu sắc kia mới có thể tiếp tục cất lên tiếng nói đầy kiêu hãnh của một nền văn hóa đã và đang đồng hành cùng sự phát triển dân tộc.
Hoang Nam